Con người

Con Cuông dưới thời Vua Triều Lý đã khai khẩn mở mang diện tích trồng trọt, mở thêm làng mới tập trung ở dọc Sông Lam vùng Nam Kim – Khe Bố; Vĩnh Hoà ( Tương Dương), vùng Cự Đồn (Con Cuông).
Vào thế kỷ XIII Con Cuông có tên là Mật Châu hay còn gọi là Kiềm Châu. Thế kỷ XV là thời kỳ hưng thịnh nhất của nhà Lê. Năm 1469 Lê Thánh Tông tổng hợp Châu Hoan và Châu Diễn Thành thừa Tuyên Nghệ An gồm 9 phủ, 25 Huyện, 2 Châu. Con Cuông là một bộ phận của Phủ Trà Lân, gồm 4 huỵên: Kỳ Sơn, Tương Dương, Vĩnh Khang, Hội Ninh.
Sau Cách Mạng tháng 8 một phần đất của huyện Vĩnh Hoà đặt tên là Con Cuông gồm 4 tổng, 10 xã, hiện nay Con Cuông có 12 xã và 1 Thị trấn.
Qua các thời đại nối tiếp nhau theo dòng lịch sử khai phá và xây dựng làng bản, ruộng đồng, thôn xóm, đó là công lao to lớn của đồng bào các dân tộc từ các thế hệ này đến thế hệ khác. Trong buổi đầu đồng bào nơi đây phải chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt, giặc ngoại xâm và phong tục tập quán lâu đời. Con Cuông là huyện Miền núi ở phía Tây Nam Nghệ An, có lịch sử lâu đời từ thời kỳ văn hoá Hoà Bình xa xưa.
Dải đất này đã từng chứng kiến và đã từng góp sức người sức của vào công cuộc đấu tranh võ trang lớn, làm nên “Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay” Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi còn ghi lại như thế 
Con Cuông là quê hương của đồng bào các dân tộc ít người, có Chi bộ Đảng ra đời đầu tiên của các dân tộc thiểu số trong cả nước từ cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. Sông suối và núi đá 8.446 ha còn lại là diện tích thổ nhưỡng 157.817 ha (trong đó diện tích nhóm đất mùn vùng núi cao hơn 1.000m chiếm 38.019 ha phần lớn nằm trong diện tích rừng nguyên sinh Pù Mát). Huyện Con Cuông có chiều dài 30 km, là huyện cửa ngõ Miền Tây Nam Nghệ An. Lưng dựa vào dãy trường sơn, phía Đông Bắc giáp Huyện Quỳ Hợp, Phía Tây Nam giáp dãy Trường Sơn, Đông Nam giáp Huyện Anh Sơn, phía Tây Bắc giáp huyện Tương Dương. Sông Lam là con sông lớn nhất chạy qua Huyện dài 30 km, chia huyện thành bên tả 6 xã, bên hữu 6 xã và một Thị Trấn. Sông Lam có giá trị về giao thông và là nguồn cung cấp thực phảm lớn. Tuyến đường 7 chạy qua huyện Con Cuông dài 30 km là đường Quốc Lộ có tầm quan trong rất lớn. Thực dân Pháp gọi con đường này là “Chìa khoá Đông Dương”. Nơi có thể mở cửa cho việc ngự trị của chúng  trên bán đảo quan trọng và giàu có này.
Cùng cải tạo thiên nhiênvà tạo lập cuộc sống trên mảnh đất này có 4 dân tộc anh em: Thái, Đan Lai, (Thổ) Kinh, Hoa.
Người Thái vào Con Cuông từ thế kỷ XIV. Họ biết làm nghề rừng, chăn nuôi, dệt thổ cẩm, trồng lúa nước. Đa số người Thái ở vùng núi thấp thường ở dọc sông suối và thung lũng. Người Đan Lai (Thổ – Lý hà) Truyền thuyết “Trăm cây nứa vàng, cái thuyền liền chèo” cho rằng họ từ Thanh Chương do bị bóc lột, loạn lạc nên chạy ngược lên. Họ sinh sống ở đâu nguồn Khe khặng (Môn Sơn), Khe nóng (Châu Khê), Khe Mọi (Lục Dạ) họ tìm nơi kín nhất nơi “Sơn cùng thuỷ tận” của đất nước để sinh sống ở đó. Đặc điểm của các người này là làm nương săn bắt hái lượm, làm hàng lâm sản. 
Người Kinh cũng đã lên đây sớm, giao lưu buôn bán với đồng bào dân tộc Thái, Thổ. Họ sống đan xen với đồng bào dân tộc Thái.
Người Hoa chiếm số lượng rất ít, sống tập trung ở Thị trấn Con Cuông chủ yếu họ buôn bán làm kế sinh nhai.